Đồng hành với những gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn

bai-van-nghi-luan-ve-tinh-cam-giua-cha-me-va-con-cai-so-2-606704.jpg

ĐỒNG HÀNH VỚI NHỮNG GIA ĐÌNH
GẶP HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN


Trong Thư Mục Vụ năm 2018 của HĐGMVN, các vị chủ chăn của chúng ta hướng dẫn : “Chúa Giêsu một đàng đưa ra lý tưởng rất cao cả về đời sống hôn nhân và gia đình; đàng khác, Người chạnh lòng thương những người đau khổ trong đời sống hôn nhân, như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria, hoặc người nữ phạm tội ngoại tình. Theo gương Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi chăm sóc mục vụ cho các gia đình, nhất là những gia đình gặp khó khăn”. Chủ đề mục vụ năm 2019 của Đức Cha giáo phận chúng ta là “Gia đình vượt khó có Chúa cùng vui”. Trong năm mục vụ này, chúng ta chú trọng đến các gia đình đang gặp những hoàn cảnh khó khăn, để cùng đồng hành với họ, để họ thấy rằng họ không bị bỏ rơi, nhưng được quan tâm chăm sóc trong tình yêu thương của Chúa và Giáo hội. Đề tài hôm nay không có tham vọng giải quyết một cách rốt ráo cho mọi trường hợp các gia đình gặp khó khăn, nhưng chỉ để tham khảo, rồi mỗi người chúng ta có một hướng đi trong việc đồng hành với họ.

I/ CHÚA GIÊSU VỊ THẦY DẠY CHÚNG TA ĐỒNG HÀNH :

Trước hết, chúng ta không được hiểu ĐỒNG HÀNH như là một chiến lược giao tiếp với thế giới. Ngược lại, đó là phương pháp chính Đức Giêsu đã chọn để gặp gỡ chúng ta gần như tình cờ, và tỏ cho chúng ta thấy con đường đi của Chúa Cha. Chính Người, là vị Thầy dạy chúng ta nghệ thuật  “đồng hành” mà mọi môn đệ cần phải học. Chúng ta nhớ lại, chẳng hạn, sau khi sống lại, Chúa Giêsu đồng hành với các môn đệ đi về Emmau (Lc 24,13-33) Người chỉ cho chúng ta những tham chiếu cho mọi lộ trình chung: Lời Chúa và bí tích là tất cả sự hiệp thông của Giáo hội, tiêu biểu là Bữa ăn Thánh Thể, từ đó hai môn đệ đã quay trở lại Giêrusalem trong đêm. Chúa Kitô Phục sinh “đi trước” các Tông đồ, mở ra cho họ các con đường, trên đó họ gặp gỡ mọi người. Nước của Người là ở những mối quan hệ cá nhân vốn luôn khởi đầu âm thầm, nhưng hàm chứa một sức sống bên trong khả dĩ làm biến đổi thế giới. 

Như thế, đồng hành là một cách thức đặc biệt để loan báo Tin mừng, có nối kết nội tại với việc bước theo Đức Kitô, vị Tôn sư. Thánh Giáo hoàng Gioan-Pholô II nói rằng: “Nối bước theo Chúa Kitô là nền tảng thiết yếu và nguyên thủy của nền luân lí Kitô giáo: tựa như dân Israel xưa cất bước theo Chúa và đã được Chúa dẫn dắt  qua hoang địa tiến về Đất Hứa (x. Xh 13,21), người môn đệ cũng phải nối bước theo Đức Giêsu, và được Chúa Cha lôi kéo để đến với Người (x. Ga 6,44)” [Gioan-Phaolô II, Thông điệp Veritatis splendor, 19]. Vấn đề ở đây là đời sống gắn bó với một con người, là Chúa Giêsu Kitô, từ đó mà người ta hiểu ý nghĩa của lề luật và tư tưởng. Đồng hành phải bắt đầu từ cái nhìn của Chúa Giêsu. Người “đã nhìn những người nam và người nữ mà Người gặp gỡ, với tình yêu và sự dịu dàng, đồng hành với những bước đi của họ bằng sự thật, lòng kiên nhẫn và tình thương xót, trong khi loan báo những đòi hỏi của Nước Thiên Chúa” (AL 60). Chúa Giêsu nhìn «thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, “như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9,36). Mọi bận tâm mục vụ của Hội thánh trước hết phải bắt nguồn từ ánh mắt nhìn này. 

…với một tình yêu đích thật
Nguyên lý của đồng hành Kitô giáo được Đức Thánh cha Phanxicô nhắc lại lời của Đức Bênêđictô XVI: “Khởi đầu của cuộc đời Kitô hữu không phải là một chọn lựa đạo đức hay một ý tưởng cao siêu, nhưng là gặp gỡ một biến cố, một con người. Sự gặp gỡ đó đem đến cho cuộc đời một chân trời mới và một hướng đi quyết định” (Evangelii Gaudium 7). Từ cuộc gặp gỡ đó, đã toát lên “vẻ đẹp của tình yêu cứu độ được biểu lộ nơi Đức Giêsu Kitô chết và phục sinh” (EG 36), một tình yêu thật mà Đức Kitô hiến trao cho chúng ta với lí lẽ của nó: Một khi đã gặp gỡ, xin cùng bước đi trên lối đường của cuộc đời. Đồng hành để dần dần nhận ra sự thật về một tình yêu, để tình yêu đó tăng trưởng đến mức trưởng thành, và đáp lại tình yêu của Đấng Mục tử nhân lành: “Tôi đến để chúng được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). 

“Điều quan trọng là đón nhận và đồng hành với họ bằng sự kiên nhẫn và tế nhị. Đó là điều mà Đức Giêsu đã làm với người phụ nữ Samaria (Ga 4,1-26): Người đề cập đến khát vọng tình yêu đích thật của chị, để giải thoát chị khỏi những gì làm u tối cuộc đời chị và đưa chị đến niềm vui trọn vẹn của Tin mừng” (Amoris Laetitia 299). Bắt đầu từ lòng khát khao một tình yêu đích thật, và khát khao đó là sự thật ghi dấu suốt cuộc hành trình, và phải dựa trên đó mà vượt qua những cản ngại để đạt đến viên mãn. Cần nhớ ba nguyên tắc rất quan trọng cho mục vụ mà Đức Giáo hoàng Phanxicô yêu cầu.

1. Tình yêu đích thật (cf. chương 4AL 89-164) là sợi chỉ đỏ dẫn dắt mọi cuộc đồng hành. Tình yêu biết “kiên nhẫn, nhân hậu…, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hi vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (cf. 1Cr 13,4-7).

2. Hành trình này gắn liền với khát vọng đặc biệt của con tim đầy tình cảm. Khát vọng của con tim ấy cần được giáo dục và khởi đi từ ánh sáng của tình yêu thật. Tiến trình này là quá trình huấn luyện để trưởng thành tình cảm, rất quan trọng cho chọn lựa tự do bậc sống.

3. Đồng hành gắn liền với đời sống bí tích, nguồn ân sủng hoạt động bởi Đức Giêsu Kitô.Bí tích Rửa tội khởi đầu biểu lộ một chi thể ‘thuộc về’ Thân Mình Chúa Kitô yêu cầu được đồng hành; hiệp thông trong bí tích Thánh Thể kết thúc mọi hành động và biểu lộ sự viên mãn thuộc vể Hội Thánh. Hoán cải đời sống nhằm thoát khỏi hoàn cảnh tội tình khốn khổ là kết quả mong muốn của mục vụ Đồng hành. 

Đức Giêsu đã bắt đầu đồng hành với chị phụ nữ Samaria, bằng việc nhắc đến “tính bản thiện” vốn khát mong một tình yêu đích thật Thiên Chúa đã gieo mầm trong tâm hồn mọi người nam và nữ. Từ chỗ khơi dậy lòng khát khao này, Đức Giêsu đã dẫn chị đi đến chỗ nhận ra sự dữ của những điều chị đã làm và của hoàn cảnh lầm lạc của chị, từ đó mở ra cho chị con đường giải thoát, con đường hoán cải. Trong tình cảnh hiện tại của chị, quả thật, không có những nhân tố thiện hảo dẫn lối đến với Tin mừng, vẫn còn những cản trở lớn ngăn chặn chị đạt đến cuộc sống viên mãn. “Nhận thức về tội được thức tỉnh trước tình yêu nhưng không của Đức Giêsu” (AL 64).

II/ GIA ĐÌNH LÀ NƠI ĐỒNG HÀNH ĐẦU TIÊN :

Trong thực tế chúng ta rất thường nghĩ rằng các giám mục, linh mục hay tu sĩ mới là người làm nhiệm vụ đồng hành với con người. Thực ra, không phải như vậy, vì nơi chốn đầu tiên ta được đồng hành là gia đình. Chính mẹ hay cha, và đôi khi là ông bà, là người đầu tiên đã nắm tay dẫn đưa ta đến nhà thờ dự lễ, dạy ta biết yêu kính Chúa, biết Hội thánh, biết đức tin cho ánh sáng soi dẫn bước chân ta đi vào cuộc đời.

Đức Thánh cha Phanxicô nói: “Gia đình không thể khước từ mình, chính gia đình là nơi nâng đỡ, đồng hành, hướng dẫn con cái, cho dù cần phải tái tạo lại các phương pháp và tìm cho ra các nguồn lực mới. Cha mẹ cần phải dự tính xem mình muốn trao cho con cái những gì”(AL 260)

Tình yêu thương được trao ban và lớn lên trong gia đình, đó là môi sinh tự nhiên cho đức tin được thông truyền và củng cố. “Cha mẹ muốn đồng hành đức tin với con cái mình, thì cần chú ý đến những biến chuyển của chúng, vì họ biết kinh nghiệm tâm linh không thể áp đặt, nhưng được đề nghị trong tự do”(AL 288). Nếu không có sự đồng hành tự nhiên để cho tình thương yêu triển nở mỗi ngày, ngay cả giữa hai vợ chồng, “cuộc sống gia đình chúng ta sẽ không còn là một nơi của cảm thông, đồng hành và khích lệ thay vào đó sẽ là một nơi thường xuyên căng thẳng và công phạt lẫn nhau”(AL 108).

Đồng hành với gia đình qua các gia đình

Với đức Thánh Cha, chúng ta xác tín rằng gia đình chính là chủ thể của việc loan báo Tin mừng trong mục vụ gia đình (AL 200). Cụ thể, điều đó có nghĩa là chúng ta phải nhờ gia đình để đồng hành với các gia đình khác. Đó chính là ơn gọi truyền giáo của gia đình kitô hữu (AL 208,230,289), được Chúa kêu gọi đi ra để đồng hành trong đức tin và cuộc sống với những người sống quanh họ, qua sự gần gũi giúp đỡ, hầu cuộc sống gia đình họ phong phú ngập tràn hiện diện của Thiên Chúa. Không có bước đầu tiên này, mục vụ đồng hành chỉ còn là lí thuyết, thiếu sự nâng đỡ thiết yếu từ phía cộng đoàn Hội thánh cụ thể.

Nhiều gia đình đã nhận ra sứ mạng mà Thiên Chúa đã trao phó cho họ. Thế nhưng, Giáo hội địa phương vẫn chưa sử dụng đến mạng lưới các gia đình cho đủ khi đối diện với nhiệm vụ đồng hành này. Hơn nữa, cần thiết phải có một sự huấn luyện thích hợp đối với các gia đình chủ thể truyền giáo này, để phát huy hữu hiệu và có trách nhiệm. Một điều rất ý nghĩa và quan trọng là các gia đình này sống trong cùng một khu vực cần liên kết với nhau thành cộng đoàn nhỏ, như các liên gia trong các giáo khu của giáo xứ, theo mô hình các Cộng đoàn Giáo hội Cơ bản (CĐGHCB). Bởi lẽ Hội thánh là sự Hiệp thông của các cộng đoàn được thể hiện, sẽ là chứng từ và lời loan báo Tin mừng có sức thuyết phục nhất.

Trong tình hiệp thông của Hội thánh, mà gia đình được hít thở thường xuyên trong cộng đoàn giáo xứ qua sự đồng hành với các Cộng đoàn nhỏ. Các khó khăn, thách đố, và cả các thương tích trong gia đình dần dần được chữa lành, vì có Đức Kitô là Đầu, và là Lương y thần linh hiện diện ở trung tâm. Hội thánh Chúa Kitô là một “nơi gặp gỡ ưu việt” giữa Thiên Chúa và dân mới của Người. Hội thánh là “bí tích của sự kết hợp thâm sâu con người với Thiên Chúa”. Hội thánh cũng là “bí tích của sự hiệp nhất nhân loại”. “Hiệp thông và sứ vụ kết hợp với nhau không thể tách biệt, chúng thâm nhập và bao hàm lẫn nhau”. Hiệp thông “vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của sứ vụ”. “Hiệp thông phát sinh sứ vụ, và sứ vụ được hoàn thành nơi hiệp thông” (Gioan-phaolô II, Ecclesia in Asia 24). Sự hiệp thông này thường xuyên được sống trong các cộng đoàn tín hữu địa phương. “Hội thánh Đức Kitô thật sự hiện diện trong mọi cộng đoàn tín hữu địa phương hợp pháp, là những cộng đoàn luôn gắn bó với các mục tử của mình, và Tân ước cũng gọi đó là các Giáo Hội” (Lumen Gentium 26)

Đó là ý nghĩa của một hiện diện mới mẻ của Hội thánh tại Á châu ngày nay.
Hội thánh chính là sự Hiệp thông của các Cộng đoàn nhỏ, đồng hành với gia đình, và cùng với gia đình loan báo Tin mừng “trong gia đình”, và đi ra loan báo Tin mừng cho các gia đình khác.
 

III/ CÁC BƯỚC CỦA LỘ TRÌNH ĐỒNG HÀNH : 


Khởi đầu Hội thánh đồng hành đến với con cái mình, nhằm thiết lập một mối quan hệ bền vững ngày càng tiến triển. Hội thánh ý thức cần có thời gian và kiên nhẫn giúp người ta, cách riêng những người đang ở trong hoàn cảnh khó khăn hoặc “trái qui tắc”, được lớn lên đến mức trưởng thành trong tình yêu đích thật. Dưới ánh sáng Lời Chúa, Hội thánh giúp phân định để nhận ra sự thật của con người trong hoàn cảnh thực tế hiện tại còn xa với sự thật của tình yêu như Chúa muốn. Mục vụ đồng hành cần giúp nhìn sâu vào hoàn cảnh thực tế, cả trong những trường hợp rất chông chênh, hoặc đã đổ vỡ, và ý thức luật tiệm tiến là tiêu chuẩn căn bản của sự phân định, và điều đó sẽ không thực hành được nếu không có sự đồng hành. “Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa” (AL 300). 

Sau cùng, Hội thánh giúp các cá nhân tín hữu và gia đình họ hội nhập cách hài hòa trọn vẹn vào Thân Mình Đức Kitô toàn thể, tức là Gia đình Hội thánh. Hội nhập hoàn toàn vào mối hiệp thông hội thánh, là mục đích sau cùng của Đồng hành. Hội nhập dựa trên cơ sở của bí tích Rửa tội như ơn huệ khởi đầu chung và hiệp thông Thánh Thể như là mục đích sau cùng của toàn thể tiến trình Đồng hành. 

Đồng hành như thế gồm ba bước sau đây: 
1. Đón tiếp.
Bước đầu tiên luôn là đón tiếp người ta, làm sao để họ cảm thấy mình bước vào trong lòng Hội thánh ấm áp và thân tình như trong một gia đình. Đây là bước đầu tiên của một tiến trình hội nhập, sống và tăng trưởng trong Hội thánh. Từ đó, tiến tới một bước đầu tiên, là làm cho đôi bạn muốn tự xem xét lại sự thật tình trạng hiện tại của mình. Mục đích của sự đón tiếp này là nhằm thiết lập một quan hệ để cùng đi trên một lộ trình, không hẳn để giải quyết tức thời một vấn đề, hội nhập dần vào cộng đoàn cho tới lúc được hiệp thông trọn vẹn. Sau cuộc gặp gỡ đối thoại đầu tiên, vị mục tử có thể nhận định được bước đầu hoàn cảnh của người ta. Người đồng hành không chỉ chú ý tới tình trạng ‘trái qui tắc’, nhưng đồng thời còn quan tâm xét đến những mỏng manh yếu đuối và thương tổn của con người, và cả những khó khăn cản trở thực thi tình yêu đích thật của Tin mừng.
 
2. Đề nghị một hành trình đức tin qua các giai đoạn khác nhau. Điều quan trọng ở bước thứ hai này là làm sao con người đạt được một đức tin tới mức hoán cải. Phải loan báo cho họ, theo cách thức phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của họ, chân lý Phúc âm như là ánh sáng soi chiếu vào cuộc đời, để đọc lại lịch sử của họ, và sẽ thấy không hề bị bế tắc, trái lại bắt đầu từ Thiên Chúa, Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu thoát. Như vậy lộ trình phải đi bao hàm hai mức độ. 

Thứ nhất: Tham dự vào hành trình như của một dự tòng dành cho người trưởng thành, để đưa họ hội nhập dần vào cộng đoàn Hội thánh, và hiểu biết những điều căn bản chủ yếu của đời sống kitô hữu. 

Thứ đến, cách đặc biệt hơn, là giúp họ hiểu ý nghĩa của dây hôn phối bất khả phân li của hai người đã nên “một xương một thịt” (x. St 2,24): Tiêu chuẩn căn bản để giúp phân định, là để giúp họ nhận ra sự thật hoàn cảnh cụ thể của họ, và con đường phải đi để vượt qua tội lỗi. “Vấn đề là một lộ trình đồng hành và phân định nhằm hướng dẫn các tín hữu này đi đến ý thức về tình trạng của họ trước mặt Thiên Chúa. Trao đổi với linh mục ở tòa trong, sẽ góp phần đào luyện một phán đoán đúng đắn về những gì gây cản trở cho khả năng tham dự đầy đủ hơn vào đời sống của Hội thánh, và về các bước có thể xúc tiến và phát triển khả năng đó. Đành rằng trong chính lề luật không có sự tiệm tiến (cf. Familiaris Consortio, 34), nhưng việc phân định này sẽ không bao giờ được phép bỏ qua những yêu sách của sự thật và bác ái theo Tin mừng như Hội thánh đề nghị” (AL 300). 

3. Hoán cải: hành trình trở về với ánh sáng hướng tới việc đón nhận các bí tích. Đứng trước sự thật của mình, người tín hữu thấy những cản trở nào vẫn còn đó trong cuộc sống trước đòi hỏi của việc bước theo Đức Kitô. Chấp nhận nguyên lý này là biết mình phải thay đổi đời sống. Đó là tiến trình hoán cải mà Hội thánh cần đồng hành đúng đắn. Giai đoạn thứ ba này phải bắt đầu khi một trong hai người xin bước vào hành trình đặc biệt hoán cải này, với viễn tượng được tham dự vào các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể, một khi đã đáp ứng được các điều kiện cần thiết. Việc đón nhận này có tính cách cá nhân, khuyến khích cả hai người cùng dấn thân vào hành trình hoán cải, hầu cả hai cùng giúp nhau đi qua những thời kỳ khó khăn. Điều chủ chốt của toàn thể quá trình khai sáng này là vấn đề tha thứ. “Tha thứ cho điều bất công mình phải chịu thì không dễ chút nào, nhưng ân sủng sẽ giúp người ta có thể tha thứ với tiến trình thời gian” (AL 242).


IV/ ĐỒNG HÀNH VỚI CÁC GIA ĐÌNH GẶP HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN
 
Những người gặp nạn bị thương cần được tiếp cận cứu giúp như trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu. Những gia đình gặp khó khăn trong tình trạng chông chênh cần được đồng hành sát sao hơn. Đức thánh cha Phanxicô đặc biệt nhạy cảm mời gọi các cộng đoàn Hội thánh gia tăng đáp lại những người này bằng sự đồng hành: “Hội thánh cũng phải đồng hành bằng sự ân cần chăm sóc những đứa con yếu đuối nhất của mình, vốn ghi dấu bởi tình yêu bị tổn thương và lạc lối, bằng cách khôi phục lại cho họ niềm tin và hi vọng, như ánh sáng của một ngọn hải đăng hoặc một ngọn đuốc được đặt giữa mọi người hầu soi sáng cho những người đã lầm đường lạc lối hoặc đang ở giữa bão tố cuộc đời” (Amoris laetitia (AL), 291). 

Điều lưu ý mục vụ đầu tiên là làm sao để giúp cho con người cảm nhận sự hiện diện gần gũi của Chúa Giêsu trong hoàn cảnh khó khăn, đau khổ của họ. “Cần đón tiếp và trân trọng nỗi đau khổ của những người phải gánh chịu li hôn, li dị hoặc bị ruồng bỏ một cách bất công, hoặc buộc phá vỡ cuộc chung sống do sự ngược đãi của người phối ngẫu kia” (AL 242). 

Những hoàn cảnh đặc biệt nghiêm trọng cần quan tâm đầu tiên là:
- Những người di dân. Trong việc đồng hành với người di dân đòi hỏi phải có một mục vụ chuyên biệt cho các gia đình di dân lẫn cho cả các thành viên của gia đình còn ở lại nơi nguyên quán của họ (AL 46). 

- Những người sống cuộc hôn nhân hỗn hợp có thể góp phần cho trào lưu đại kết, nên tìm cách để có sự cộng tác chân tình giữa thừa tác viên Công giáo và thừa tác viên không Công giáo, từ thời gian chuẩn bị hôn nhân cho tới lễ cưới (x. Familiaris consortio, 78). Về hôn phối khác đạo hay khác tín ngưỡng, đây là nơi ưu việt cho cuộc đối thoại liên tôn, sự tự do tôn giáo là điều thiết yếu cần được tôn trọng, nhưng người Công giáo phải có khả năng đem Tin mừng cắm sâu vào gia đình, như thế mới mong có thể giáo dục con cái họ theo đức tin Kitô giáo (x. AL 247-248). 

- Những gia đình đang tang chế (Al 253-258)… Những trường hợp khó khăn đặc biệt khác như hôn nhân đổ vỡ, gia đình với cha/mẹ đơn thân, quan tâm cách riêng tới những người ly hôn và là nạn nhân trong nạn phá thai.
Từng người, từng trường hợp cần quan tâm nâng đỡ cách khác nhau. Cộng đoàn nhỏ ở địa phương và các cặp vợ chồng khác đồng hành với những gia đình gặp khó khăn là điều rất quan trọng và có ý nghĩa, biết đáp ứng các nhu cầu mục vụ cấp bách liên hệ đến thực tế nhân bản của đời sống các gia đình khó khăn, không để họ cô đơn, không định hướng, không được nâng đỡ. 

- Đối với trường hợp ly hôn, Đức thánh cha khuyên những tín hữu này không “bước thêm một bước nữa” đồng thời tìm đến với Hội thánh để được đồng hành sống đức tin phù hợp. Trong thực tế, nói chung, hiếm có những người chịu cảnh sống đơn độc sau bi kịch ly hôn đau đớn, mà sống gần gũi với cộng đoàn. Những người ly thân sống đúng như Giáo luật định (đ.1152-1157), thực tế cũng hiếm và cũng không có được sự đồng hành nào từ phía cộng đoàn thân quen. Thật đáng tiếc phải nhìn nhận thực trạng ly hôn phổ biến hiện nay. Sau ly hôn, hoặc họ bị té ngã rơi sâu vào nỗi cô đơn hoặc dấn thân vào một cuộc kết hợp mới. Đó là những hoàn cảnh khó khăn xảy ra nhiều mà Hội thánh cần ưu tiên quan tâm đồng hành . 

- Những người ly dị không tái hôn được nhìn nhận là “những chứng nhân của lòng trung thành trong hôn nhân, cần được khích lệ tìm thấy trong Thánh Thể lương thực nâng đỡ tình trạng hiện tại của họ. Cộng đoàn địa phương và các mục tử phải đồng hành với những người này một cách ân cần, nhất là khi họ có con cái hoặc lâm cảnh nghèo túng cùng cực” (AL 242). Con cái của họ phải chịu những chấn thương trầm trọng với nhiều hậu quả khôn lường, là những nạn nhân vô tội đáng thương nhất, cũng ít thấy có những giúp đỡ thích hợp từ phía Giáo hội. Đức thánh cha rất quan tâm và muốn Hội thánh “không ngừng lên tiếng nhân danh những con người dễ bị tổn thương nhất, đó là những đứa con thường phải âm thầm đau khổ” (AL 246). Các trung tâm, các văn phòng tham vấn về đời sống gia đình, các cộng đoàn Giáo hội cơ bản, các hiệp hội tại giáo xứ, giáo phận, cần quan tâm đến khía cạnh mục vụ đặc biệt này.
 
KẾT LUẬN :
Mỗi bước đồng hành có tốt hay không là do người ta tiến gần hơn hay xa rời mục đích sau cùng, là hội nhập trọn vẹn vào Hội thánh qua bí tích Giao hòa và Thánh Thể. Trong thực tế, nhiều trường hợp người ta không thể tái hợp với người phối ngẫu trước; nhưng cho dẫu thế, cũng không bao giờ thất vọng mà ngưng tiến tới trong hành trình hiệp thông. Khả năng đó đã hàm ẩn ngay từ đầu trong lời hứa hôn, với sự trợ giúp của Chúa Giêsu, họ nói tiếng xin vâng đến trọn đời, bất chấp tất cả. Chính ân sủng của bí tích hôn phối hoạt động trong hướng đó, mời gọi họ xây dựng, trên nền tảng Chúa đã thiết lập, những mối kết hợp duy nhất khả dĩ bảo vệ gia đình. “Sự kết hợp đã là hiện thực và không thể rút lại, được Bí tích Hôn nhân xác nhận và thánh hiến” (AL 218). Những người trong hoàn cảnh “trái qui tắc” được giúp phân định, và được Chúa thúc đẩy bước trên con đường hoán cải và được tái sinh như người con hoang đàng trở về được Cha chạy ra đón nhận: cho “xỏ nhẫn, mặc áo đẹp” có nghĩa là, đối với Chúa họ vẫn còn phẩm giá của con cái và của người hôn phu/hôn thê./.

                                                                                                       

 

 Trưởng ban Mục vụ gia đình/ Gp/Qui Nhơn

Tác giả bài viết: Lm Phaolô Nguyễn Văn Khiêm

Nguồn: https://gpquinhon.org/

 

BÀI VIẾTMỚI NHẤT

Thông báo Xa Quê